Công thức chung của tư bản – Tài liệu text
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.54 KB, 122 trang )
– Còn tiền được coi là tư bản vận động theo công thức:
T – H – T (tiền – hàng – tiền),
Tức là sự chuyển hóa của tiền thành hàng hóa, rồi hàng
hóa lại chuyển hóa ngược lại thành tiền.
Đây là công thức lưu thông của tư bản.
+ So sánh công thức H -T – H và công thức T – H – T:
* Những điểm giống nhau:
Cả hai sự vận động đều do hai giai đoạn đối lập nhau là
mua và bán hợp thành, trong mỗi giai đoạn đều có hai nhân
tố vật chất đối diện nhau là tiền và hàng, và hai người có
quan hệ kinh tế với nhau là người mua và người bán.
Nhưng đó chỉ là những điểm giống nhau về hình thức.
* Giữa hai công thức đó có những điểm khác
nhau về chất:
§. Lưu thông hàng hóa giản đơn (H -T – H) bắt đầu bằng
việc bán (H – T) và kết thúc bằng việc mua (T – H).
Điểm xuất phát và điểm kết thúc của quá trình này đều là
hàng hóa (H), còn tiền chỉ đóng vai trò trung gian.
§. Ngược lại, lưu thông của tư bản (T – H – T )bắt đầu
bằng việc mua (T – H) và kết thúc bằng việc bán (H – T).
Tiền vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm kết thúc của quá
trình, còn hàng hóa chỉ đóng vai trò trung gian;
tiền ở đây không phải là chi ra dứt khoát mà chỉ là ứng ra
rồi thu về.
§. Mục đích của lưu thông hàng hóa giản đơn là giá trị sử
dụng để thỏa mãn nhu cầu, nên các hàng hóa trao đổi phải
có giá trị sử dụng khác nhau.
Nên công thức vận động đầy đủ của lưu thông hàng hóa
giản đơn là H – T – H’. Sự vận động sẽ kết thúc ở giai đoạn
thứ hai, khi những người trao đổi có được giá trị sử dụng
mà người đó cần đến.
§. Còn mục đích của lưu thông tư bản không phải là giá
trị sử dụng mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm.
Vì vậy, nếu số tiền thu về bằng số tiền ứng ra, thì quá
trình vận động trở nên vô nghĩa.
Do đó, số tiền thu về phải lớn hơn số ứng ra, nên công
thức vận động đầy đủ của tư bản là T – H – T’, trong đó:
T’ = T + ΔT.
Số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra (ΔT), C.Mác gọi là
giá trị thặng dư (ký hiệu là m). Số tiền ứng ra ban đầu đã
chuyển hóa thành tư bản.
Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Mục đích lưu
thông tư bản là sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng dư, nên sự
vận động của tư bản là không có giới hạn, vì sự lớn lên của giá
trị là không có giới hạn.
C.Mác gọi công thức T – H – T’ là công thức chung của tư bản.
Vì sự vận động của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông
dưới dạng khái quát đó, dù đó là tư bản thương nghiệp, tư bản
công nghiệp hay tư bản cho vay.
Điều này rất dễ dàng nhận thấy trong thực tiễn, bởi vì hình thức
vận động của tư bản thương nghiệp là mua vào để bán ra với giá
đắt hơn, rất thích hợp với công thức trên.
Tư bản công nghiệp vận động phức tạp hơn, nhưng cũng không
thể tránh khỏi những giai đoạn T – H và H – T’.
Còn sự vận động của tư bản cho vay để lấy lãi chẳng qua chỉ là
công thức trên được rút ngắn lại T – T’.
C.Mác chỉ rõ: “Vậy T – H – T’ thật sự là công thức chung của tư
bản, đúng như nó xuất hiện trong lưu thông”.
2. Mâu thuẫn của công thức chung
Bản chất của công thức T – H – T’ là giá trị đẻ ra giá trị
thặng dư. Trong công thức T – H – T’. Trong đó:
T’ = T + ΔT.
Nhưng giá trị thặng dư (ΔT) do đâu mà có?
– Phải chăng giá trị thặng dư đẻ ra trong lưu thông?
Trong lưu thông chúng ta xem xét ở hai trường hợp:
+ Trường hợp trao đổi ngang giá
+ Trường hợp trao đổi không ngang giá:
Có thể có ba trường hợp xảy ra, đó là:
* Giả định rằng có một nhà tư bản nào đó có hành vi bán
hàng hóa cao hơn giá trị 10% chẳng hạn.
* Giả định rằng lại có một nhà tư bản nào đó có hành vi
mua hàng hóa thấp hơn giá trị 10%, để đế khi bán hàng
hóa theo giá trị anh ta thu được 10% là giá trị thặng dư.
* Giả định rằng, trong xã hội tư bản lại có một số kẻ giỏi bịp
bợp, lừa lọc, bao giờ hắn cũng mua được rẻ và bán được đắt.
Như vậy, trong lưu thông dù người ta trao đổi ngang giá hay
không ngang giá thì cũng không tạo ra giá trị mới, do đó cũng
không tạo ra giá trị thặng dư.
– Phải chăng giá trị thặng dư đẻ ra ngoài lưu thông?
Ngoài lưu thông chúng ta xem xét ở hai trường hợp:
* Ở ngoài lưu thông, nếu người trao đổi vẫn đứng một mình với
hàng hóa của anh ta, thì giá trị của những hàng hóa ấy không hề
tăng lên một chút nào. (Tiền để trong két, hàng hóa để trong kho).
* Ở ngoài lưu thông, nếu người sản xuất muốn sáng tạo thêm
giá trị mới cho hàng hóa, thì phải bằng lao động của mình.
Chẳng hạn, người thợ giầy đã tạo ra một giá trị mới bằng cách
lấy da thuộc để làm ra giầy. Trong thực tế, đôi giầy có giá trị lớn
hơn da thuộc, vì nó đã thu hút lao động nhiều hơn, còn giá trị
của bản thân da thuộc vẫn y như trước, không tự tăng lên.