Phân tích nhân vật ông giáo hay nhất (9 mẫu) – Văn mẫu lớp 8

Văn mẫu lớp 8: Phân tích nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc gồm 2 dàn ý khía cạnh tất nhiên 9 bài văn mẫu, giúp người dùng hiểu rõ hơn về hình tượng ông giáo để viết bài phân tích hay hơn.

Với 9 bài văn mẫu phân tích nhân Vật ông giáo, sẽ giúp những em trau dồi vốn từ, củng cố tri thức lúc viết văn. Vậy mời những em cùng theo dõi nội dung khía cạnh trong bài viết dưới đây của bloghong.com:

TOP 9 bài phân tích nhân vật ông giáo hay nhất

  • Dàn ý phân tích nhân vật ông giáo
    • Dàn ý 1
    • Dàn ý 2
  • Phân tích nhân vật ông giáo – Mẫu 1
  • Phân tích nhân vật ông giáo – Mẫu 2
  • Phân tích nhân vật ông giáo – Mẫu 3
  • Phân tích nhân vật ông giáo – Mẫu 4
  • Phân tích nhân vật ông giáo – Mẫu 5
  • Phân tích nhân vật ông giáo – Mẫu 6
  • Phân tích nhân vật ông giáo – Mẫu 7
  • Phân tích nhân vật ông giáo – Mẫu 8
  • Phân tích nhân vật ông giáo – Mẫu 9

Dàn ý phân tích nhân vật ông giáo

Dàn ý 1

1. Mở bài

Giới thiệu về nhân vật ông Giáo trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao: Ông Giáo là một người từng trải với những suy nghĩ và trằn trọc về cuộc thế và số phận con người. Ông Giáo là hiện thân của dòng đẹp, là tư tưởng lỗi lạc nhưng sinh nhầm thời thế.

2. Thân bài

– Giới thiệu vài nét về nhân vật ông Giáo

– Phân tích những nét đẹp của ông Giáo được thể hiện của hành động, suy nghĩ đối với người xung quanh:

  • Là người đáng mến nhưng cũng đáng thương
  • Ông Giáo là người thấu hiểu chuyện đời, biết thông cảm và thương xót cho người khác
  • Là người từng trải và giàu triết lí
  • Là người biết trân trọng và giữ gìn dòng đẹp

=> Tâm tư, trằn trọc cũng như suy nghĩ của nhà văn được thể hiện rõ ràng qua nhân vật ông Giáo

3. Kết bài

  • Khẳng định lại vai trò của ông Giáo đối với tác phẩm.

Dàn ý 2

1. Mở bài

– Giới thiệu tổng thể tác giả, tác phẩm:

  • Nam Cao (1917 – 1951) là nhà văn hiện thực to, một nhà báo kháng chiến, một trong những nhà văn tiêu biểu nhất thế kỷ 20.
  • Tác phẩm “Lão Hạc” là truyện ngắn nổi tiếng viết theo chủ nghĩa hiện thực tiêu biểu của nhà văn Nam Cao được viết vào năm 1943.

– Giới thiệu tổng thể về nhân vật ông giáo: Nhân vật ông giáo trong tác phẩm tuy ko phải là nhân vật chính nhưng lại vô cùng quan yếu trong việc thể hiện tư tưởng của tác giả.

2. Thân bài

a) Luận điểm 1: Lý lịch và hoàn cảnh nhân vật.

– Ông giáo là một tri thức nghèo ở nông thôn, với hoàn cảnh khó khăn.

  • Nếu như với một người nông dân như lão Hạc, sự nghèo đói khiến cho lão phải bán đi con chó – người bạn thân nhất của lão, thì với một trí thức như ông giáo, thứ ông quý trọng nhất, nâng niu nhất nhưng cuối cùng ông vẫn phải bán chúng đi để chữa bệnh cho con – đó là sách.
  • Cuộc sống khó khăn của ông giáo còn được thể hiện qua hình ảnh người vợ của ông. Sự nghèo đói, khổ cực đã khiến cho thị trở thành ích kỉ với tất cả mọi người, ngoại trừ những đứa con của thị.

=> Cuộc sống khó khăn bao trùm lên ngôi làng nhỏ, dù là một người trí thức cũng ko thể thoát khỏi vòng vây của dòng đói, dòng khổ.

b) Luận điểm 2: Ông giáo là một người giàu tình cảm, giàu lòng yêu thương.

– Ông giáo khác vợ ông ở chỗ, dù nghèo đói, túng quẫn, nhưng ông vẫn giữ được dòng phẩm chất, dòng lòng thương người, đồng cảm của mình, đặc trưng là với ông bạn già – lão Hạc.

  • Từ lúc con trai lão Hạc ra đi, ngoài cậu Vàng thì với lẽ, ông giáo chính là người thấu hiểu và đồng cảm với lão nhất, ông luôn lắng tai mọi tâm sự của lão Hạc, từ việc con trai ko với tiền cưới vợ phải bỏ đi đồn điền, tới việc lão muốn bán chó, muốn gửi vườn, gửi tiền,…
  • Ông giáo luôn muốn trợ giúp lão Hạc, dù chỉ là củ khoai, chén rượu, lúc lão Hạc từ chối sự trợ giúp của ông, ông giáo vừa buồn vừa thông cảm. Sự trợ giúp duy nhất của ông dành cho lão, với lẽ là giữ vườn và tiền làm ma hộ lão.

– Ko chỉ với lão Hạc, ông giáo cũng hiểu và thông cảm cho sự ích kỉ của người vợ: “Vợ tôi ko ác, nhưng thị khổ quá rồi”

c) Luận điểm 3: Ông giáo là một trí thức vừa đáng thương vừa đáng quý.

– Tưởng như trong câu chuyện này, lão Hạc đã là người khổ nhất, đáng thương nhất, nhưng nếu như nhìn lại tất cả, với lẽ ông giáo mới là người đáng thương nhất.

  • Ông giáo là nhân vật đại diện cho từng lớp trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ.
  • Sự bế tắc đấy được thể hiện ở chỗ ông chính là người chứng kiến mọi khổ đau của lão Hạc, con lão, của vợ ông, và với lẽ của rất nhiều người khác, những ông chỉ với thể đứng nhìn mà ko thể cứu giúp họ khỏi dòng khổ đau đấy.
  • Ông giáo ko chỉ gánh trên vai sự thiếu thốn về vật chất mà còn gánh cả nỗi đau về ý thức, đó là sự dày vò, day dứt ngẫu nhiên thể làm gì cho xã hội, cho tổ quốc, như chính trách nhiệm của một nhà nho, nhà trí thức đương thời.
  • Lúc vợ ông ích kỉ với lão Hạc, ông chỉ “buồn chứ ko nỡ giận”, lúc nghe Binh Tư nói lão Hạc muốn đánh bả chó, ông chỉ biết thốt lên “Thế cuộc quả tình cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”. Và cho tới lúc chứng kiến dòng chết của lão Hạc, điều duy nhất ông với thể làm đó là giữ trọn lời hứa với lão.

=> Tình cảnh bế tắc và tấm lòng nhân đạo của ông giáo khiến cho người đọc thấy đâu đó trong con người ông là nỗi lòng, tâm sự của chính tác giả – nhà văn Nam Cao.

3. Kết bài

  • Khẳng định lại phẩm chất, vai trò của nhân vật ông giáo trong truyện: Ông giáo là người giàu lòng trắc ẩn, yêu thương, đại diện cho từng lớp trí thức đương thời.
  • Kiểm tra, cảm nhận của em về nhân vật: Thấp thoáng đằng sau nhân vật ông giáo đấy chính là hình ảnh tác giả với tấm lòng nhân đạo cao cả và nỗi lòng bế tắc trước hoàn cảnh của những người dân lao động.

Phân tích nhân vật ông giáo – Mẫu 1

Mỗi nhân vật trong truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một mảnh đời, một số phận. Ta thương cảm xót xa cho cái chết đầy đau đớn dữ dội của lão Hạc, nhưng cũng ko quên đi một ông giáo đầy bất hạnh. Nung nấu trong mình những ý định lớn lao, nhưng tất cả đều sụp đổ bởi “cơm áo ko đùa với khách thơ”.

Hai tiếng ông giáo đầy kính trọng, thiêng liêng. Ở cái đất quê mùa, ít học ấy mấy ai được người đời tôn xưng là ông giáo. Đó phải là người hiểu luân lí, lắm chữ nghĩa mới được gọi như vậy. Và ông giáo chính là một người như vậy.

Dưới sự giới thiệu của Nam Cao, người đọc được biết đôi nét về tiểu sử của ông giáo.Thời trẻ ông giáo là một người chăm chỉ, ham học hỏi, sống có mục đích, lí tưởng, thứ ông quý hơn sinh mạng của mình chính là những cuốn sách. Nhưng cuộc sống đưa đẩy, đầy éo le, vào Sài Gòn lập nghiệp ko được bao lâu, ông giáo ốm, trận ốm ấy đã khiến ông bán gần hết những gia sản mình có và mang về được một va li sách. Nếu như lão Hạc yêu quý cậu Vàng như thế nào thì ông lão cũng nâng niu những cuốn sách của mình như vậy. Nhưng lấy vợ, rồi cái nghèo cứ đeo bám, ông bán dần bán mòn những quyển sách của mình và giữ lại đúng năm quyển, tự hứa sẽ ko bán chúng đi nữa. Nhưng cuộc đời cũng thật biết trêu đùa, con ông ốm đau, sài đẹn, ông phải làm sao? Đành bán vợi, bán dần những cuốn còn lại kia. Cuộc đời của ông giáo cũng chính là một bi kịch khác, bi kịch của một người trí thức nghèo.

Ông giáo còn là một người có tâm lòng nhân hậu, luôn biết yêu thương và san sẻ với mọi người. Ông giáo là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho lão Hạc. Ông giao là nơi để lão Hạc chia sẻ tâm sự, vợi bớt đi bao nỗi buồn, đặc biệt là tư ngày con lão Hạc bỏ đi đồn điền cao su. Những bức thư con lão gửi về cũng chính là ông giáo đọc, để lão thỏa vơi nỗi nhớ con. Rồi lúc lão Hạc bán chó, đau đớn, xót xa, tự trách mình, cũng chính ông giáo đã ở bên an ủi, động viên: “Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng: bây giờ cụ ngồi xuống phản này chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu một ấm nước chè tươi thật đặc; ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lào. Thế là sướng”. Đối với ông giáo, lão Hạc là một người thân trong gia đình, ông thương cảm cho số phận bất hạnh của lão Hạc, vợ mất, một mình gà trống nuôi con, nay lại lụi cụi một mình lúc đứa con trai bỏ đi. Lão Hạc nào có ai bên cạnh chăm sóc, ngoài sự ưa chuộng, sẻ chia của ông giáo.

Dù gia cảnh cũng ko khấm khá gì hơn lão Hạc. Nhưng nhìn cảnh lão Hạc sau lúc gửi tiền tang ma sau này và giao mảnh vườn lại để cho con, phải ăn uống kham khổ, lấy củ khoai, củ ráy ăn thì ông giáo động lòng thương cảm muốn giúp đỡ. Ông giúp bằng chính cái tâm của mình, nhưng lại bị lão Hạc từ chối gần như là hách dịch. Ông hiểu lắm, bởi lão là người có lòng tự trọng, nên ko muốn ai thương hại mình. Cái chết của lão Hạc cũng làm ông giáo bàng hoàng đau đớn. Đến bấy giờ ông mới thực sự hiểu hết con người lương thiện, nhân cách cao đẹp của lão Hạc: “Lão Hạc ơi! Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt. Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến lúc con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn: Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn; cụ thà chết chứ ko chịu bán đi một sào…”.

Ông giáo cũng là người rất hiểu chuyện, nắm bắt rõ tâm lí con người. Lúc ông đem chuyện lão Hạc kể với vợ, mụ vợ gắt phắt đi vì cho rằng chính lão tự làm lão khổ nên mặc kệ lão. Ông giáo ko trách vợ bởi: “Vợ tôi ko ác nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên dược cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu?Lúc người ta đau khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất”.

Ông giáo là nhân vật tư tưởng của nhà văn Nam Cao, ông đại diện cho Nam Cao phát biểu những suy nghĩ, quan niệm nhân sinh ở đời. Xây dựng nhân vật với chiều sâu tâm lí cho thấy biệt tài của tác giả, đồng thời cũng thể hiện niềm cảm thong sâu sắc của Nam Cao với những trí thức nghèo đương thời

Phân tích nhân vật ông giáo – Mẫu 2

Truyện ngắn Lão Hạc là một trong những thành công của Nam Cao trong việc xây dựng những hình tượng người nông dân Việt Nam sống dưới ách thống trị nặng nề trọng xã hội thực dân nửa phong kiến, những con người phải sống một cuộc thế đầy khổ đau nhưng vẫn mang một vẻ đẹp tâm hồn thật cao quý. Nếu lão Hạc là hình tượng nhân vật gảy xúc động bởi tình phụ tử thiêng liêng và tư cách cao thượng thì ông giáo cũng là điểm sáng về tinh thương người, về cách nhìn đầy thông cảm trân trọng đối với người nông dân nghèo đói đương thời.

Trước hết, ta thấy nhân vật “tôi” trong tác phẩm là một người tri thức nghèo. Nghề giáo trong xã hội đấy thường bị thất nghiệp. Mọi ước mong, lí tưởng, mọi nhiệt tình sôi nổi của tuổi xanh đành bỏ dở và phai nhạt dần. Kể cả những cuốn sách quý giá ông giáo cũng đành bán đi để chữa bệnh cho con. ông giáo, do đó, rất thông cảm với nỗi đau xót của lão Hạc ông tâm sự như muốn nói với người bạn đồng hoàn cảnh: “Lão Hạc ơi!Ta với quyền giữ cho ta một tí gì đâu? Lão qúy con chó Vàng của lão đã thấm vào đâu với tôi quý năm quyển sách của tôi!”

Từ kinh nghiệm, từ nỗi đau bản thân, ông giáo dễ dàng thông cảm với lão Hạc. Ông thấy được phẩm chất cao quý của lão Hạc và rất trân trọng lão Hạc. Ông đã nhận xét nếu ko hiểu sâu tâm hồn phẩm chất của họ, ta chỉ thấy họ ngu dốt, gàn dở, xấu xa! Trái lại, đã hiểu và yêu quý Lão Hạc, ông giáo ngầm trợ giúp lão Hạc tới nỗi vợ của ông phàn nàn trách cứ. Đó là thời buổi dòng đói khổ và dòng chết chóc đang rình rập bất cứ ai! Hiểu nhau ở ý thức, thể hiện bằng hành động trợ giúp cụ thể, điều đó rõ là tình cảm sâu xa, nhân hậu.

Tuy nhiên, cả một xã hội đang bị cảnh chết đói đe dọa, với người còn giữ được đạo đức tư cách, với người phải trộm cắp để sống. Vì vậy, thấy Lão Hạc xin bả chó của Binh Tư, ông giáo lầm tưởng lão Hạc cũng từ bỏ tư cách, nghèo đói tới liều lĩnh rồi. Dù vậy, ông giáo cũng suy nghĩ rất nhân hậu: Lão Hạc lại theo gót Binh Tư làm nghề bắt trộm chó để sống, lẽ nào một con người hiền lành chất phác như vậy mà giờ đây lại với ý nghĩ và hành động xấu xa tới như thế? Vừa kính nể về tư cách, vừa thương vì hoàn cảnh túng cùng, ông giáo cảm thấy buồn trước sự suy thoái đạo đức. Tới lúc nghe và thấy dòng chết thảm khốc vì ăn bả chó của lão Hạc, ông giáo chợt nhận ra: “Ko! Thế cuộc chưa hẳn đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”. Thật vậy, cuộc thế chưa hẳn đáng buồn vì Lão Hạc vẫn là con người với đạo đức, với tư cách cao quý, Lão Hạc vẫn xứng đáng với niềm tin của ông, lão chưa mất phẩm giá vì miếng cơm manh áo! Chưa hẳn đáng buồn, vì lão Hạc vẫn là con người với đạo đức, với tư cách cao quý, lão Hạc vẫn xứng đáng với niềm tin cậy của ông, lão chưa mất phẩm giá vì miếng cơm manh áo! Nhưng đời đáng buồn theo nghĩa khác: ông giáo buồn vì con người mà ông đang yêu mến, quý trọng đấy lại nghèo tới nỗi ko với dòng ăn để tồn tại trên cõi đời này. Thế cuộc con người lương thiện lại bi thảm tới thế? Vậy thì chân lí “ở hiền gặp lành” còn tồn tại nữa chăng?

Đối với lão Hạc, còn quý gì hơn lời hứa thực hiện điều ông trăn trối: Lão Hạc ơi! Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt nhắm mũi! Lão đừng lo gì cho dòng vườn của lão dòng vườn mà lão nhất định ko chịu bán đi một sào”. Ta như nghe ông giáo đang thề nguyện trước vong linh người đã khuất, ta tin rằng ông sẽ làm tròn lời hứa với lão Hạc.

Truyện Lão Hạc đã cho ta thấy xã hội đương thời với nhiều cảnh bi thương, dồn con người lương thiện vào đường cùng ko giúp được, ko cưu mang nỗi nhau để cuối cùng phải tự kết liễu đời mình một cách thảm thương. Ý nghĩa tố cáo của truyện thật sâu sắc!

Tóm lại, ông giáo là người trí thức, ko could mắn trong xã hội đương thời nhưng vẫn với tấm lòng nhân hậu đáng quý, với dòng nhìn sâu sắc để thông cảm san sớt và quý trọng một người chất phác thực thà như lão Hạc. Biết bao người với lòng nhân hậu mà ko giúp nhau vượt qua thảm kịch của cuộc sống! Qua ông giáo, ta hiểu dòng nhìn thông cảm tin tưởng của Nam Cao đối với tư cách đáng quý: dù đó là trí thức hay nông dân thì quan hệ giữa họ vẫn là tri kỉ, họ với thể ký thác những điều hệ trọng, thiêng liêng nhất đời mình.

Phân tích nhân vật ông giáo – Mẫu 3

Trở đi trở lại trong sáng tác của nhà văn Nam Cao là hình ảnh người nông dân và người trí thức. Họ là nơi để nhà văn ký thác những ý kiến về nghệ thuật và cuộc thế, nơi nhà văn bộc lộ tâm sự của mình. Người trí thức trong sáng tác của ông là những nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh sống đầy nghiệt ngã. Những kiếp đời mòn mỏi, sống mòn, sống thừa, bị áo cơm ghì sát đất. Khổ đau hơn, họ lại là người trí thức – người luôn ý thức được những nỗi khổ đau của mình trước cuộc thế. Nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một con người như vậy.

Ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc được nhà văn giao cho rất nhiều trọng trách. Nhân vật này đứng thứ hai sau nhân vật lão Hạc, vừa như người chứng kiến vừa như người tham gia vào câu chuyện của nhân vật chính, vừa đóng vai trò dẫn dắt câu chuyện vừa trực tiếp bộc bạch thái độ, tình cảm, tâm trạng của bản thân. Đó cũng là chỗ gần gụi và khác cách kể chuyện trong tiểu thuyết – tự truyện Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng.

Ông giáo cũng là một con người với hoàn cảnh sống đầy những khó khăn. Tuổi xanh ông đã từng đi nhiều nơi, vào tận Sài Gòn với những niềm tin và bao khát khao cao đẹp. Một con người như thế rồi cũng bị ném trả lại vùng nông thôn nghèo khổ, nơi hello vọng bị diệt trừ và 11 tưởng chỉ là một giấc mộng mãi ko thành. Những cuốn sách mà ông đã nâng niu quý trọng “mỗi lần mở một quyển ra, chưa kịp đọc dòng nào, tôi đã thấy bừng lên trong lòng tôi như một rạng đông dòng hình ảnh tuổi hai mươi trong trẻo, biết yêu và biết ghét…”, rồi cũng phải tự tay mình bán đi vì con ốm, vì đã cùng đường đất sinh nhai. Đọc những trang văn của Nam Cao, mặc dù nhà văn ko hề miêu tả kĩ cuộc sống của ông giáo nơi quê nhà nhưng tôi cứ với cảm giác một nỗi buồn man mác bao phủ lên cảnh sống của ông.

Ông giáo là một nhân vật giàu lòng yêu thương. Mang lẽ chính những điều đó là chỗ sắp gùi làm cho ông và lão Hạc xích lại sắp nhau hơn. Ông giáo tỏ ra thông cảm, thương xót cho hoàn cảnh của lão Hạc — người láng giềng già, tốt bụng, tìm cách yên ủi, trợ giúp lão. Nhất là từ lúc thằng con lão Hạc đi xa và lúc lão bán cậu Vàng thì ông giáo nhịn nhường như là chỗ dựa ý thức, nơi duy nhất của lão Hạc bộc bạch tâm sự của mình. Lúc lão Hạc bán cậu Vàng, sang nhà ông giáo với tâm trạng tột cùng khổ đau, thi ông giáo đã ở bên, động viên lão với tấm lòng thông cảm rất mực thực bụng. Lúc lão Hạc bòn mót tất cả để gửi gắm lại phần để dành cho con, phần để dành lo cho hậu sự của mình, trong lúc lão ngày một rơi vào cảnh sống đói khổ, thì ông giáo là người duy nhất hiểu lão: “Tôi giấu giếm vợ, thỉnh thoảng giúp ngấm ngầm lão Hạc”. Người láng giềng tốt bụng và giàu tình thương của lão Hạc khiến cho ta xúc động và trân trọng, đó là một tư cách cao cả.

Cũng giống như biết bao nhân vật người trí thức trong sáng tác của Nam Cao, họ đều là những con người đáng thương. Nếu là một người nông dân thường nhật thì dòng đói, dòng nghèo với lẽ là nỗi khổ duy nhất và to nhất. Nhưng với những người trí thức của Nam Cao, họ còn phải gánh trên vai cả nỗi khổ về ý thức. Những con người với học vấn đấy luôn bị dày vò, luôn phải trằn trọc trong suy nghĩ. Đi hết câu chuyện, ta nhận ra ông giáo là người luôn phải chứng kiến nỗi đau của người khác. Nhìn xung quanh cuộc sống mình ko với lấy một niềm vui, một ánh sáng của sự sống. Thế cuộc bi thương, xấu số của gia đình lão Hạc, cách nghĩ của chính vợ ông khiến cho ông đau xót thốt lên: “Thế cuộc quả tình cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”. Là người giàu lòng yêu thương nhưng ông cũng bất lực trước hoàn cảnh của người khác. Lão Hạc luôn bên ông, luôn san sớt với ông tâm sự những suy ngẫm về cuộc thế nhưng rồi, ông giáo với giữ nổi lão Hạc ở lại cõi đời này đâu. Kết thúc, lão vẫn chết một cách thê thảm, đáng thương. Vợ ông giáo với dòng nhìn sai lệch về lão Hạc nhưng ông cũng chỉ ngậm ngùi “bởi thị khổ quá rồi, với bao giờ thị nhìn thấy nỗi khổ của người khác đâu”. Ta thấy ông giáo là một nhân vật vừa đáng thương vừa đáng trọng.

Những triết lí sống rút ra về nỗi buồn trước cuộc thế và con người đã tạo cho ông một tiếng nói riêng trong truyện. “Chao ôi, đối với những người ở quanh ta, nếu ta ko cố” mà hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, keo kiết, xấu xa, bỉ ổi, toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, ko bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương, ko bao giờ ta thương”. Ông giáo ko chỉ tỏ ra rất hiểu vì sao mà vợ ông lại ko chịu giúp lão Hạc và thông cảm với những nỗi khổ của thị. Ông giáo chỉ buồn mà ko nỡ giận và còn nhắc nhở mình phải cố tìm hiểu họ, đồng cảm với họ. Mặt khác ông còn buồn vì thấy lão Hạc sắp như làm ngơ trước sự trợ giúp của ông làm cho hai người dần xa nhau. Nhưng lúc biết lão Hạc xin bả chó của Binh Tư, nghe câu nói đầy mỉa mai của y dành cho lão Hạc thì ông còn buồn hơn. Ông cảm thấy thất vọng trước sự thay đổi cách sống do ko chịu đựng được đói khổ, “túng ăn vụng trộm, đói làm càn” của một người vốn với bản tính trong sạch, giàu lòng tự trọng như lão Hạc. Ông giáo buồn vì bản năng đã thắng lợi nhân tính mất rồi! Nhưng sau dòng chết bất thần và bi thảm của lão, tâm trạng của ông lại biến chuyển, với thêm những suy nghĩ khác. Trước hết ông thấy cuộc thế ko thật đáng buồn vì với những dòng chết mang ý thức hello sinh đầy cao đẹp như của lão Hạc. Dòng chết cho thấy nhân tính đã thắng lợi, lòng tự trọng vẫn giữ chân con người trước bờ vực của sự tha hóa. Ông giáo ngỡ ngàng nhận thấy: “nhưng cuộc thế lại đáng buồn theo một nghĩa khác” là ở chỗ, những người tốt như lão Hạc, đáng thương, đáng thông cảm như thế nhưng cuối cùng vẫn với hoàn cảnh bế tắc, hoàn toàn vô vọng, vẫn phải tìm tới dòng chết như là cứu cánh duy nhất, như là sự giải thoát tự nguyện và vạn bất đắc dĩ. Và càng đáng buồn hơn vi ko phải ai cũng hiểu hết ý nghĩa dòng chết của lão. Tâm trạng của ông giáo chứa chan một tình yêu thương và lòng nhân ái sâu sắc nhưng cũng trầm lặng với giọng điệu buồn và bi quan. Chỉ còn đó một tí niềm yên ủi với vong linh người vừa chết kia là ông giáo cố’ gắng giữ trọn lời hứa, giữ trọn mảnh vườn để với dịp gặp và trao tận tay người con trai lão Hạc.

Mang một điều ko phải dễ dàng độc giả nào cũng nhận ra rằng: người khổ đau nhất truyện chưa hẳn đã là những con người nhỏ bé, bất lực như lão Hạc, con lão Hạc, Binh Tư,… mà lại là ông giáo – con người biết tất cả mọi nỗi đau của mọi kiếp người mà đành bất lực “ngậm khổ đau để gửi vào yên lặng”.

Xây dựng nhân vật ông giáo, Nam Cao như muốn tặng cho lão Hạc một người bạn để yên ủi, san sớt nhưng cũng với nhân vật này, nhà văn muốn bộc bạch ý kiến, suy ngẫm về kiếp người và cuộc thế. Ta như bắt gặp hình bóng của Nam Cao trong ông giáo. Những nét tương đồng của nhân vật này và nhà văn như một lời tâm sự thực bụng mà tác giả gửi vào trang viết. Văn là người. Một trái tim ấm nóng tình nhân đạo, lòng yêu thương với con người cứ bùng lên mãnh liệt trong trang viết của Nam Cao. Mang thể ko thể thay đổi cuộc thế của những người trí thức trong sáng tác của mình nhưng ta vẫn tin rằng dù cuộc thế với nghiệt ngã tới đâu thì họ vẫn giữ được những nét tư cách đáng trọng của mình.

Phân tích nhân vật ông giáo – Mẫu 4

Viết truyện ngắn Lão Hạc Nam Cao ko lạnh lùng khách quan mà trung thực, gắn bó, ko thờ ơ, hững hờ mà tha thiết cảm động. Nhà văn coi mình là người trong cuộc (ý của Hà Minh Đức). Đó là bởi với nhân vật ông giáo.

Truyện ngắn Lão Hạc nếu mất đi nhân vật ông giáo quả là một sự thiếu sót. Ông giáo đã làm sáng lên, nêu bật nội dung tư tưởng sâu sắc của tác phẩm.

Nam Cao được kiểm tra là nhà văn hay trằn trọc về cuộc thế, trằn trọc về thân phận con người, Nhân vật ông giáo được đặt vào tác phẩm ko phải là ko với chủ định. Với vai trò là người dẫn chuyện, kể chuyện, ông giáo trực tiếp thổ lộ, biểu hiện những tình cảm của mình một cách tự nhiên, tổng thể. Tác phẩm trở thành phong phú như được phả vào một luồng tình cảm sàng lọc từ một con người với tấm lòng chân chính – ông giáo.

Ốm dậy, tôi về quê. Khăn gói chỉ vẻn vẹn với một dòng va-li đựng toàn những sách. Ôi những quyển sách rất nâng niu. Sau rốt, chỉ còn với năm quyển, tôi nhất định dù với phải chết cùng ko chịu bán. Đó vậy mà tôi cũng, bán! Mới cách đây với hơn một tháng thôi, đứa con nhỏ của tôi bị chứng kiết lị sắp kiệt sức… Ko! Lão Hạc ơi! Ta với quyền giữ cho ta một tí gì đâu? Những lời chua chát đắng cay thấm vào từng câu chữ. Ông giáo đã với một thời cao vọng, đầy những say mê, nhiệt huyết, nguyện cống hiến cho đời tất cả tài năng trí tuệ. Nhưng hình như cuộc sống thực tế đã trói chặt và xóa mờ những ước mơ đó. Dòng gì đẹp hơn là một con người nguyện cống hiến toàn bộ lí tưởng đó lại bị một bức tường ngăn trước mặt. Tính cách của ông giáo với sung sướng lão Hạc. Nhân vật này là hình bóng của nhân vật trí thức tiểu tư sản nghèo của Nam Cao, là đối tượng của nhà văn khai thác. Đó cũng là hình bóng, là hiện thân của Nam Cao.

Là một con người được nếm trải-và chứng kiến bao cảnh sống, ông giáo luôn canh cánh bền lòng nỗi trằn trọc về cuộc thế, về con người. Trong tác phẩm đã rất nhiều lần ông giáo phải thốt lên những lời đắng cay, đau xót về mối quan hệ giữa con người và con người, sự biến mất ở mỗi con người: Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta ko bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; ko bao giờ ta thương. Ko! Thế cuộc chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác. Sự lo lắng, băn khoăn của ông giáo cũng là nỗi niềm của Nam Cao. Tâm sự của nhân vật mang một nỗi đau về thời thế. Thật sâu sắc và trân trọng. Nhưng đó cũng là con người bất lực – “lực bất tòng tâm”, chỉ biết kêu lên những lời ca tha thiết. Ông giáo ko biết và ko chỉ ra được con đường thoát cho lão Hạc cũng ko tìm được con đường thoát cho chính mình. Đó cũng là đặc điểm của bao nhân vật tiểu tư sản nghèo trong tác phẩm của Nam Cao.

Được học hành, nếm trải ông giáo với một sự hiểu biết và lòng thương yêu rất mực đối với con người, một lòng thương quê mình. Đối với vợ – một người hay kiểm tra lỡ lầm về con người, ông giáo chỉ với thể buồn chứ ko nỡ giận. Bởi hiểu biết về quy luật khắc nghiệt của cuộc sống, ông giáo đã sẵn sàng tha thứ tính xấu hay những lỡ lầm của con người. Một sự bao dung nhìn nhận con người một cách đúng đắn. Đặc thù với nhân vật lão Hạc, ông giáo càng thể hiện tấm lòng mình. Ông là người biết nhìn nhận dòng đẹp và trân trọng dòng đẹp. Chính vì vậy mà đã với lúc ông lo sợ dòng đẹp ở con người lão Hạc với thể biến mất. Ông giáo đã tìm thấy con người ngoài mặt với vẻ lẫn cẫn kia chứa đựng bên trong một vẻ đẹp sáng ngời. Chính vì vậy mà ngòi bút của Nam Cao qua nhân vật ông giáo, ban sơ thì lạnh lùng, nhưng càng về sau càng tha thiết càng gắn bó.

Sống trong một xã hội mà con người lừa dối lẫn nhau, với được một sự hiểu biết đúng đắn và một trái tim như ông giáo quả là đáng quý. Ông giáo với cách nhìn nhận về người nông dân với lúc lỡ lầm, nhưng cuối cùng thì ông cũng thấy được vẻ đẹp đáng trân trọng ở họ. Dù phải sống trong một hoàn cảnh ko sung sướng gì nhưng ông giáo xoành xoạch trợ giúp những người đói khổ hơn mình: Tôi giấu giếm vợ tôi, thỉnh thoảng giúp ngấm ngầm lão Hạc.

Trên cương vị là nhân vật xưng tôi, ông giáo đã ko giấu giếm những suy nghĩ, tình cảm đối với người đọc. Đó cũng là cách khai thác nội tâm nhân vật của Nam Cao. Ông giáo trở thành tri kỉ của những con người khổ đau như lão Hạc. Ông giáo đã chứng kiến và thực sự xúc động trước nỗi đau của lão Hạc. Đôi mắt lão dâng dâng nước, Lão hu hu khóc.

Người ta kiểm tra Ngô Tất Tố là nhà văn trân trọng người nông dân nhất, còn Nam Cao, thông qua nhân vật ông giáo cũng đã thể hiện một tấm lòng rất mực thông cảm đối với người nông dân. Ông giáo tới với lão Hạc, làm bạn với lão Hạc, đó là sự tới với con người.

Truyện ngắn Lão Hạc khép lại với tiếng thổn thức tận đáy lòng ông giáo. Sự tiếc cho một dòng đẹp đã vĩnh viễn mất đi, tấm lòng và sự hiểu biết của ông giáo quả là ko thể thiếu được trong tác phẩm.

Dù còn những mặt hạn chế, nhưng nhân vật ông giáo là một tấm gương hiếm hoi về lòng nhân hậu, về cách nhìn nhận và trân trọng những phẩm chất cao đẹp của những con người khổ đau ở dòng xã hội rối ren đầy cạm bẫy. Ông giáo cũng là nhân vật Nam Cao trân trọng và gửi gắm tấm lòng mình. Chủ nghĩa nhân đạo qua nhân vật ông giáo đã giúp cho tác phẩm một tiếng nói của con người chứng kiến và cảm nhận câu chuyện. Từ lúc mở đầu cho tới kết thúc. Song song qua nhân vật ông giáo, ta còn phát hiện được những điều độc đáo, mới mẻ trong cách xây dựng nhân vật của Nam Cao. Ông giáo được xây dựng qua dòng suy nghĩ, tình cảm của tác giả. Nhân vật ông giáo đã ghi một dấu ấn khó quên trong lòng người đọc và chiếm một vai trò quan yếu

Trong tác phẩm nhân vật còn hướng chúng ta tới những điều chân, thiện, mĩ. Cho nên ko chỉ bằng nhân vật lão Hạc mà bằng nhân vật ông giáo, tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao đã truyền được tương đối thở của cuộc sống, những băn khoăn day dứt của con người tới chúng ta và do đó truyền được dòng đẹp tới với chúng ta.

Phân tích nhân vật ông giáo – Mẫu 5

Nam Cao là cây bút truyện ngắn hiện thực năng lực, tài giỏi. Truyện của ông gắn ngay tắp lự với nông dân, làng quê. Đề tài này nhịn nhường như trở thành thân thuộc với những tác phẩm của ông. “Lão Hạc” cũng là một trong số những truyện ngắn vượt trội của ông với đề tài về người nông dân. Trong truyện ngắn ko chỉ nhớ tới nhân vật trung tâm là Lão Hạc mà còn vượt trội hình ảnh ông giáo – người bạn, người láng giềng của lão.

Trong truyện, nhân vật ông giáo là láng giềng của lão Hạc. Đây là nhân vật làm nghề dạy học, một nghề cao quý, đối với thời đấy là một nghề thanh danh, được nhiều người kính nể. Ông sống gần gụi, thân tình với lão Hạc, được lão Hạc trân trọng và tin tưởng. Trong mối quan hệ với lão Hạc nhân vật chính của truyện thì ông giáo là người biết thấu hiểu, đồng cảm sâu sắc, xót xa với lão Hạc. Điều đấy được Nam Cao khắc hoạ tài tình qua nhiều khía cạnh. Lão Hạc thường qua nhà ông giáo chơi, trò chuyện : sẻ chia giãi bày mọi chuyện trong nhà những băn khoăn nỗi niềm tâm trạng về cậu con trai, con chó Vàng, những khó khăn trong cuộc sống nỗi niềm thương nhớ con, những tính toán gia công rồi việc nhà,… Ông giáo đều nghe, thấu hiểu và thương cho từng hoàn cảnh của Lão Hạc bởi vậy mà ông luôn chuyên chú nghe và thâm tâm luôn trào niềm thương cảm.

Ông giáo lắng tai tất cả chuyện của lão ,từ chuyện nhỏ tới to, tới cả những việc chẳng mấy quan yếu hay với ý nghĩa. Chuyện con Vàng bữa ăn như thế nào, chuyện con Vàng thông minh, gần gụi như người bạn. Hơn một ai trong làng đấy, chỉ với ông giáo hiểu sâu sắc hoàn cảnh của lão Hạc. Ông hiểu lão Hạc chỉ với con Vàng làm banh vì vợ mất sớm, con trai vì phẫn uất ko lấy được vợ mà bỏ đi đồn điền cao su. Ông giáo cũng là người hiểu rõ tâm tư tình cảm những nỗi đau niềm yêu thương, tấm lòng nhân hậu, lương thiện của một lão nông nhân hậu, một người cha thương con. Lúc lão Hạc báo tin bán chó. Ông giáo ngạc nhiên và thấy đáng thương cho lão Hạc. Nhìn giọt nước mắt của lão mà ông giáo thương cảm vô vàn. Ông băn khoăn lúc lão Hạc gửi hết tiền cho mình. Vẫn lặng lẽ quan sát thấy lão Hạc vất vả, nặng nhọc kiếm được gì ăn nấy, muốn trợ giúp mà cũng bất lực vì hoàn cảnh của mình cũng khó như lão.

Cho dù nhiều bảo lão Hạc gàn dở nhưng ông giáo một lòng trân trọng vì ông biết lão Hạc chết vì quyết giữ vườn cho con. Ông giáo nhận ra nét đẹp trong con người lão Hạc Đức hello sinh cao cả của người cha, lòng tự trọng đẹp đẽ của con người. Tuổi tác, nghề nghiệp, vị trí xã hội khác nhau nhưng ko ngăn cách hai tâm hồn. Ông giáo và lão Hạc vẫn thân thiết, tin tưởng và thấu hiểu nhau. Từ đó ta thấy ông giáo là người với trái tim nhân hậu, yêu thương con người, đặc trưng với những người nghèo đói, khó khăn. Trước dòng chết của lão Hạc, ông giáo từng buồn bã thất vọng vì nghĩ lão Hạc đã mất đi tấm lòng trong sáng. Nhưng chứng kiến dòng chết ăn bả chó của lão để giữ tấ Nhân vật ông giáo tuy ko phải nhân vật trung tâm nhưng luôn gắn bó chặt chẽ với nhân vật chính như một người bạn, tri kỉ, chứng kiến và kể lí chân thật câu chuyện.

Ông giáo là sự hoá thân của nhà văn Nam Cao, bộc bạch tình cảm thái độ về số phận của những người nông dân xấu số và phẩm chất cao đẹp của họ. Qua nhân vật ông giáo ta ko chỉ thấy nhân vật hiện lên mà còn thấy cả tác giả với thái độ tình cảm và cảm nhận được cả đời sống nông dân thời bấy giờ.

Phân tích nhân vật ông giáo – Mẫu 6

Mang nhà phê bình từng nhận định: Dù viết về đề tài nào, truyện của Nam Cao cũng thể hiện một tư tưởng chung, nỗi băn khoăn tới đớn đau trước thực trạng con người bị hủy hoại về phẩm giá do cuộc sống nghèo đói đẩy tới. Trong truyện ngắn Lão Hạc, ta bắt gặp những con người với số phận xấu số nhưng ở họ vẫn toát lên tấm lòng và tư cách cao đẹp, chứa chan tình yêu thương con người. Nhân vật ông giáo đã để lại trong tâm trí chúng ta ấn tượng về một người tri thức nghèo trong xã hội.

Nhân vật ông giáo vừa đóng vai trò dẫn dắt câu chuyện, vừa làm người tham gia vào câu chuyện của nhân vật chính, qua đó thể hiện những suy nghĩ, tâm tư của bản thân ông trước những bão giông của cuộc thế. Ko rõ tên họ là gì, nhưng hai tiếng “Ông giáo” đã toát lên vị thế của ông – một con người nhiều chữ nghĩa và khiến cho mọi người đều nể trọng. Lão Hạc mỗi lúc nói về ông giáo đều thể hiện sự kính cẩn, trọng vọng nhưng cũng thể hiện sự tin tưởng, thân tình “Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ!”; “Vâng ông giáo dạy phải…”

Ông giáo với một hoàn cảnh sống đầy những khó khăn. Tuổi xanh bôn ba, ông từng vào Sài Gòn với niềm tin và khát khao cao đẹp nhưng cuộc sống ko phải là ước mơ màu hồng với người tri thức nghèo túng. Sau một trận ốm nặng ở Sài Gòn về quần áo bán sắp hết, chỉ còn một va li sách. Nếu lão Hạc quý cậu Vàng bao nhiêu thì ông giáo quí những quyển sách của mình bấy nhiêu. Dòng nghèo cứ đeo đẳng mãi. Quý sách là vậy mà ông giáo cứ phải bán sách dần đi, cuối cùng chỉ còn lại 5 quyển với lời nguyền: “dù với phải chết cũng ko bán”. Thế rồi, như một kẻ cùng đường phải bán máu. Đứa con thơ bị chứng kiết lị sắp kiệt sức, ông giáo phải bán nốt đi 5 quyển sách. Gia tài nhỏ nhoi đấy nhưng ông giáo cũng ko giữ lại được cho mình. Cuộc sống của ông cứ cùn dần, mòn dần trước những khốn cùng của cuộc thế, ông phải hello sinh cả những ước mơ, hạnh phúc của chính bản thân mình.

Thế nhưng, giữa những biến chuyển đầy khổ đau trong cuộc thế, ông vẫn giữ cho mình tư cách cao đẹp và là người với trái tim nhân hậu đáng quý. Trở về làng, ông là chỗ dựa ý thức, là niềm yên ủi cho lão Hạc. Ông giáo luôn thông cảm với hoàn cảnh của người cha nghèo, đơn chiếc và tội nghiệp. Ông giáo là nơi để lão Hạc san sẻ mọi niềm vui, nỗi buồn. Lão với thể tâm sự mọi chuyện về mảnh vườn, về đứa con trai, san sẻ nỗi đau lúc phải bán cậu Vàng hay với lúc chỉ là sẻ chia một bát nước chè xanh hoặc điếu thuốc lào. Lúc lão Hạc rơi vào tình trạng khốn khổ, ông giáo đã ngấm ngầm trợ giúp cho lão, dù gia đình ông cũng rất khó khăn. Ông giáo cũng là chỗ tin tưởng để lão hạc gửi gắm số tiền ít ỏi, lão dành dụm để để lúc lão chết ko phải phiền tới láng giềng. Mang lẽ những đồng cảm về khó khăn trong cuộc sống đã xích họ lại sắp nhau hơn, thông cảm hơn. Một tình bạn giữa những con người khốn khổ thật rét mướt tình người.

Nếu như nhân vật người nông dân trong sáng tác của Nam Cao chịu những nỗi khổ về vật chất, họ bị đẩy vào bước đường của dòng đói, dòng nghèo thì những nhân vật tri thức trong trang văn của ông còn là những dằn vặt, đớn đau về ý thức. Họ luôn phải trằn trọc trong những suy nghĩ. Chứng kiến cuộc sống của lão Hạc ngày càng khốn khó, bi thương, ông giáo đã phải thốt lên: “Thế cuộc quả tình cứ mỗi ngày trôi qua thật đáng buồn”. Lúc biết lão Hạc xin bả chó của Binh Tư, ông càng buồn hơn, thấp bản năng đã thắng lợi nhân tính con người. Nhưng trước dòng chết của lão Hạc, ông cảm thấy cuộc thế ko hẳn đáng buồn. Dòng chết đấy đã chứng minh cho tấm lòng trong sạch, của lòng tự trọng trước bờ vực của sự tha hóa. Ông giáo ngỡ ngàng nhận thấy cuộc thế vẫn buồn theo một nghĩa khác, một người tốt như lão Hạc nhưng cuối cùng vẫn phải tìm tới dòng chết để giải thoát cho mình.. Trước dòng chết dữ dội của lão Hạc, ông giáo xót xa, khẽ chứa lời than trước vong linh người láng giềng hiền lành, tội nghiệp: “Lão Hạc ơi! Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt nhắm mũi! Lão đừng lo gì cho dòng vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão…” Ông cảm thấy bất lực trước những đau thương mà chính ông và cà lão Hạc phải chịu đựng.

Bằng ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật vô cùng sâu sắc và tinh tế, Nam Cao đã khắc họa thành công những diễn biến trong tâm trạng của ông giáo. Mang thể coi hình tượng ông giáo chính là hình bóng của nhà văn Nam Cao. Thông qua nhân vật ông giáo, người đọc như hiểu hơn về cuộc thế và số phận của lão Hạc, góp phần tô đậm giá trị nhân đạo của truyện ngắn thấm đượm tình người.

Phân tích nhân vật ông giáo – Mẫu 7

Cuộc sống ko phải lúc nào cũng màu hồng như chúng ta ước mong, với những chuyện trên đời xảy ra vô lý, với những xấu số chẳng biết từ đâu bỗng chốc ập tới đè bẹp cuộc thế con người. Thỉnh thoảng chúng ta với thể thấu hiểu, thông cảm và lý giải được nguyên nhân của những thứ đang diễn ra trước mắt thế nhưng rồi lại bất lực nhìn trong vô vọng vì sức người với hạn, tới bản thân mình còn đang phải chịu sự giày đạp của cuộc thế thì làm sao đủ sức để thay đổi cuộc thế người khác.

Trong tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao chúng ta đã thấy một hình ảnh ông Giáo rất lương thiện và cao quý, là một người từng trải với những suy nghĩ và trằn trọc về cuộc thế và số phận con người. Ông Giáo là hiện thân của dòng đẹp, là tư tưởng lỗi lạc nhưng sinh nhầm thời thế.

Ông Giáo trong tác phẩm đóng vai trò là người kể chuyện, là nhân vật mà Nam Cao trực tiếp đặt mình vào đó để thổ lộ và giãi bày những tâm tư của lòng mình. Là một người với lòng yêu sách hơn cả, cuộc thế của ông gắn bó khăng khít với sách thế nhưng sau hết với hoàn cảnh đẩy đưa khiến cho ông phải bán những đứa con ý thức của mình để chạy vạy cho cuộc sống, để chữa bệnh cho đứa con tội nghiệp của mình.

Cùng sống và chịu đựng những đớn đau dày vò từ cuộc sống nên ông Giáo thấu hiểu và dễ đồng cảm với những người xung quanh. Ông nhận ra được vẻ đẹp cao quý nơi con người Lão Hạc, mặc cho hoàn cảnh sống của mình cũng đang đói khổ tới khốn đốn nhưng ông vẫn ko ngần ngại đưa tay ra trợ giúp Lão Hạc hết mức với thể.

Ông Giáo lo sợ hoàn cảnh sống khốn khó sẽ khiến cho cho lão Hạc đánh mất đi vẻ đẹp của mình nhưng ông cũng ko biết làm cách nào để giải quyết cho vấn đề của lão cũng như giải thoát cho cuộc thế mình, sau hết đó cũng chỉ là những trằn trọc suy nghĩ mà chẳng với cách nào cứu chữa.

Ông còn nhận ra vẻ đẹp ẩn sâu trong mỗi người, ai cũng với những câu chuyện, ai cũng với những nỗi khổ riêng của họ, ko với người xấu xa chỉ với những con người bị khuất phục bởi hoàn cảnh. Thế cuộc dài đằng đẵng sống để mà lo cho cuộc thế mình thôi đã mỏi mệt lắm rồi vậy nên con người ta ko còn tâm trí để suy nghĩ cho người khác nữa vậy nên họ trở thành ích kỉ, nhưng tất cả đều với nguyên nhân của nó.

Và ông đã thấu hiểu quy luật cuộc sống nên càng biết trân trọng và thương yêu những người xung quanh mình hơn, ông ko trách hay phán xét bất kỳ một ai mà chỉ tự đặt mình vào vị trí của họ để rồi suy nghĩ mà thông cảm, ông ko chỉ sống cho mình mà còn lo nghĩ cho cả cuộc sống của người khác.

Khác hẳn với ông Giáo thì vợ ông lại là một người tiêu cực hay với những suy nghĩ lỡ lầm về người khác, thế nhưng ông ko trách cũng ko giận mà ông chỉ thấy buồn, ông sẵn sàng tha thứ cho người khác để hiểu rõ hơn về bản thân họ, để cùng sẻ chia và thông cảm.

Thế nhưng con người đầy lạc quan và triết lý đấy lại với lúc lo sợ người khác đánh mất bản tính tốt đẹp của họ để rồi trằn trọc đau lòng. Đó là lúc ông Giáo biết tin Lão Hạc, người mà ông vô cùng nể sợ và tôn trọng xin Binh tư bả chó, thoạt đầu ông buồn và thất vọng về bản tính con người, rằng dòng đẹp, dòng cao quý của con người với thể bị mất đi nếu như con người ta rơi vào cảnh bần cùng, sau hết thì những thì tươi đẹp sẽ bị vấy bẩn mà ko cách nào cứu vãn được.

Tưởng rằng như đã vô vọng và mất niềm tin vào đạo đức của con người thế nhưng sau đó ông lại nhận ra được việc làm đầy nghĩa khí của lão Hạc, lão thà tự tay kết liễu dòng mạng già thoi thóp kia chứ nhất quyết ko chịu vứt đi lòng tự trọng của mình, nhất quyết ko đầu hàng số phận. Con người nhỏ bé là thế nhưng lại kiên cường và rắn rỏi tới ko ngờ, và điều đó làm cho ông Giáo phải thốt lên đầy thán phục.

Cuộc sống nhân sinh đầy rẫy những đau thương và khốn khổ và ko phải ai cũng giữ được tỉnh táo và dòng nhìn lạc quan đối với cuộc thế mỏi mệt này, vậy nên với thể nói ông Giáo là một trong số những người hiếm hoi đủ tỉnh táo để nhìn nhận thế giới, nhìn nhận cuộc thế đúng đắn theo cách của mình.

Phân tích nhân vật ông giáo – Mẫu 8

Truyện ngắn Lão Hạc là một trong những tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao, truyện ngắn thể hiện sâu sắc được tình cảnh đáng thương của những người nông dân nghèo trước cách mệnh tháng Tám năm 1945. Họ bị dòng đói, dòng nghèo đẩy tới bước đường cùng và là nguyên nhân gây ra những bi thảm trong số phận của họ. Tuy nhiên, cũng trong nghèo đói thì phẩm giá của con người cũng được thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết, đó là những vẻ đẹp tâm hồn đáng trân trọng của những người nông dân.

Nhân vật trung tâm của tác phẩm chính là nhân vật lão Hạc. Để làm vượt trội lên nhân vật Lão hạc, nhà văn Nam Cao đã dựng lên một nhân vật tư tưởng, nhân vật thể hiện được tuyên ngôn của nhà văn về sự sống, về số phận của con người: nhân vật ông Giáo. Nhân vật ông Giáo trong truyện ngắn lão Hạc là người bạn thân nhất, người mà Lão Hạc tin tưởng nhất để san sớt những suy nghĩ, tâm sự của mình. Mặt khác, ông Giáo cũng đóng vai trò là người kể chuyện về cuộc thế và số phận bi thảm của lão Hạc.

Ông Giáo trong cảm nhận của lão Hạc, đó là con người với nhiều chữ, với học, một người đáng kính trọng, bởi vậy mà mọi câu chuyện, tâm sự sâu kín ông đều sang và tâm sự với ông Giáo. Trước quyết định bán chó của Lão Hạc, lão đã nói rất nhiều lần, đã vô cùng trằn trọc trước quyết định này.

Tuy nhiên, lúc đầu ông Giáo đã ko tin lão Hạc sẽ bán chó nên lúc nghe Lão nói nhiều về việc bán chó, ông đã với suy nghĩ khá dửng dưng, nông cạn: “Tôi vừa thở khói vừa gà gà đôi mắt của người say, nhìn lão để làm ra vẻ để ý tới câu nói của lão đó thôi. Thật ra trong lòng tôi rất dửng dưng.Tôi nghe câu đấy đã nhàm rồi. Tôi lại biết rằng: Lão nói để đó thôi, chẳng bao giờ lão bán đâu. Vả lại, với bán thật thì đã sao?làm quái gì một con chó mà lão với vẻ băn khoăn thế chứ”.

Ông Giáo cho rằng con chó chỉ là con vật vô tri vô giác, bán hay ko cũng ko thể thay đổi được gì. Ko như những cuốn sách của ông, nó là sản phẩm của sáng tạo, của trí tuệ nên rất đáng trân trọng.Và sâu trong suy nghĩ của mình, ông giáo cho rằng con chó của lão Hạc ko thấm vào đâu so với những quyển sách của mình: “ lão quý con chó vàng của lão đã thấm vào đâu với tôi quý năm quyển sách của tôi…”

Như vậy,lúc đầu ông Giáo với lắng tai câu chuyện của Lão Hạc nhưng ko với chút đồng cảm nào với câu chuyện đấy, thậm chí còn cho rằng lão Hạc với chút quái gở, ko thường nhật. Phải tới lúc lão Hạc bán cậu Vàng và sang nhà mình với tâm trạng đầy khổ đau thì ông mới với suy nghĩ khác đi: “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậc nước, tôi muốn ôm choàng lấy lão mà òa lên khóc. Ngày nay thì tôi ko xót xa năm quyển sách của tôi quá như trước nữa”.

Tới lúc này, ông Giáo mới hiểu được tấm lòng đáng trân trọng của Lão Hạc và đã với sự đồng cảm thực bụng với lão. Sự đồng cảm của ông Giáo khiến cho cho ông phát hiện ra một sự thực đau lòng, nghiệt ngã ở đời lúc nghe người vợ nói những lời ko hay về lão Hạc.

Lời của ông giáo cũng là nội dung tư tưởng mà Nam Cao muốn thể hiện qua tác phẩm: “ Chao ôi, đối với những người quanh ta nếu ta ko cố mà hiểu họ thì chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, keo kiết, xấu xa, bỉ ổi…toàn những cớ để ta tàn nhẫn; ko bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; ko bao giờ ta thương”.

Phân tích nhân vật ông giáo – Mẫu 9

Truyện ngắn “Lão Hạc của nhà văn Nam Cao chính là một tác phẩm tiêu biểu cho con đường sáng tác nghệ thuật văn học của Nam Cao. Truyện ngắn thể hiện tình cảnh vô cùng đáng thương của những người nông dân khốn khổ vào giai cấp tri thức nghèo trước những năm cách mệnh tháng Tám thành công.

Những con người nghèo đói, bị xã hội xô đẩy tới đường cùng chính là nguyên nhân gây ra những kết cuộc bi thảm của số phận những con người khốn khổ này. Nhưng dù với nghèo khổ thì phẩm giá, tiết hạnh của người nông dân, những người tri thức nghèo khổ vẫn giữ được tấm lòng thanh bạch, tâm hồn thanh cao đáng trân trọng của họ.

Nhân vật chính trong truyện ngắn “Lão Hạc” chính là ông lão. Nhưng không tính đó với những nhân vật thứ chính cũng ko kém phần quan yếu. Đó chính là thầy giáo, một người láng giềng tốt bụng, với học vấn, tư cách, đang xoay vần trong cuộc sống với nhiều thảm kịch của cuộc sống cơm áo gạo tiền, và thảm kịch của toàn xã hội, của kiếp sống nô lệ lầm than.

Nhân vật thể hiện một tuyên ngôn văn học của nhà văn Nam Cao về sự sống, về những số phận của con người khổ đau. Nhân vật ông giáo là người với phẩm chất, tư cách là người với dòng nhìn thấu tình đạt lý, với tư tưởng nhân văn.

Nhân vật ông Giáo trong truyện ngắn “Lão Hạc” chính là người bạn thân duy nhất, là người mà ông lão vô cùng tin tưởng với thể sẻ chia mọi thứ với người bạn tâm giao.

Mặt khác, ông Giáo cũng chính là nhân chứng sống về cuộc thế số phận Lão Hạc, ông Giáo là người với chữ là người đáng kính trọng, nên hễ với việc gì quan yếu lão Hạc đều qua tâm sự với ông Giáo tìm lời khuyên. Lúc lão Bá Kiến mưu mô cướp ko mảnh vườn của lão Hạc, lão đã sang tâm sự với ông Giáo ngay ngay lập tức, để mong tìm lời khuyên thấu tình đạt lý.

Trước sức ép của cuộc sống của giai cấp thống trị, cường hào ác bá, mà lão Hạc quyết định tìm tới dòng chết. Trước lúc chết lão đã bán đi con chó của mình con Vàng người bạn thân thiết mà lão coi như là con trai mình. Người luôn đồng hành lắng tai câu chuyện của lão Hạc chính là nhân vật thầy Giáo. Lúc đầu thầy giáo “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậc nước, tôi muốn ôm choàng lấy lão mà òa lên khóc.”

Tuy nhiên, trước lúc chết lão Hạc đã sang thăm thầy Giáo nhờ giữ hộ hồ sơ nhà đất, và một ít tiền mà lão đã dành dụm được từ rất lâu. Sự đồng cảm của thầy Giáo khiến cho cho lão Hạc hoàn toàn tin tưởng trao trọn cơ ngơi của mình cho người láng giềng tốt bụng này.

Mang lẽ trong dòng xã hội tranh tối tranh sáng này, người tốt thì ít người xấu thì nhiều, chỉ với một ông Giáo là người với thể tin tưởng được. Sự đồng cảm của ông Giáo khiến cho cho ông phát hiện một sự thực vô cùng đau lòng, lúc nghe vợ mình nói những điều ko hay tàn nhẫn về lão Hạc.

Ông lão đã vô cùng đớn đau mà nói ra rằng “ Chao ôi, đối với những người quanh ta nếu ta ko cố mà hiểu họ thì chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, keo kiết, xấu xa, bỉ ổi toàn những cớ để ta tàn nhẫn; ko bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; ko bao giờ ta thương”.

Những lời của ông Giáo chính là nội dung tư tưởng nghệ thuật, giá trị nhân đạo của Nam Cao được thể hiện trong tác phẩm Lão Hạc.

Nhân vật ông Giáo chính là hình ảnh đại diện cho tư tưởng, dòng nhìn nhân sinh quan của tác giả với những cảnh đời xấu số của người nông dân xung quanh mình. Nó thể hiện tấm lòng bao dung, nhân văn, nhân đạo của tác giả với những mảnh đời xấu số khốn khổ cùng đinh trong xã hội.

Leave a Reply